Các dòng đá tự nhiên trang trí là những vật liệu xây dựng đã quá phổ biến trong thời buổi hiện nay. Bạn có thể bắt gặp chúng mỗi ngày hàng giờ và thậm chí mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống. Nó được những nhà thiết kế và các khách hàng yêu quý vẻ đẹp tự nhiên và sự sang trọng, độc đáo. Tuy nhiên bạn đã biết gì về chúng và chúng là những dòng đá nào? Nếu chưa hãy cùng HOMEMAS đi điểm qua các loại vật liệu xây dựng mới này cụ thể là đá trang trí đang phổ biến này nhé.
Thực chất có rất nhiều dòng đá trang trí nếu theo những quan niệm của các nhà địa chất, tuy nhiên do yếu tố thương mại giữa người bán và người mua cho nên nhiều loại đá đã bị gộp vào nhau. Nên nếu ta chỉ xét những loại trang trí phổ biến trên thị trường hiện nay thì các định nghĩa thương mại về các loại đá sẽ được chúng tôi sử dụng để phù hợp và thuận tiện cho mọi người. Điển hình như những loại đá sau: Đá cẩm thạch (đá marble), đá hoa cương ( đá Granite), đá xuyên sáng onyx và đá trầm tích (đá vôi-travertine)
Đá được hình thành do các hoạt động địa chất của những nơi bị nứt gãy bề mặt Trái Đất mà có sự phân bố của các loại đá vôi, đá trầm tích, đá giàu cacbon,… Nhiệt độ, áp suất và những lực vận động dưới lòng đất sẽ được bổ sung. Kết hợp thêm những khoáng chất do thổ nhưỡng và môi trường xung quanh. Chúng đã kết tinh lại và tạo ra đá biến chất quá trình này có thể diễn ra tới hàng ngàn năm. Một trong số các tảng đá biến chất đó, ngày nay chúng ta thường gọi với tên khoa học đó là đá Marble.
Do được hình thành từ đá vôi, đá trầm tích, đá giàu cacbon,…nên về mặt tính chất sau khi biến chất chúng sẽ có một độ cứng, bền cao hơn các loại đá này. Tuy nhiên, mặc dù tốt hơn nhưng nó vẫn sẽ tồn tại cấu trúc xốp, nên nó vẫn hút ẩm. Ngoài ra với các độ cứng đo được trên thang đo Mozh là 3 – 4, đá Marble trang trí chỉ được coi là loại đá mềm.
Đá có nhiều màu sắc khác nhau bao gồm như: Màu trắng, trắng xám, màu đen, màu xám, xám xanh, màuđỏ, màu xanh lục, màu vàng,… Bề mặt ngoài đá có nhiều loại hoa văn trông giống như những tĩnh mạch với nhiều sắc thái khác nhau, tạo nên các vẻ đẹp độc đáo tiêu tốn khá nhiều giấy mực của nhiều nhà bình luận. Màu sắc của đá Marble được những nhà địa chất giải thích là, do các khoáng chất có lẫn trong đá gốc ban đầu hoặc là của môi trường xung quang bị lẫn vào khi những hoạt động địa chất xảy ra.
Đá thường được sử dụng vào cả thiết kế nội và ngoại thất tất cả những hạng mục công trình như là ốp tường, cầu thang, cột, bar, bàn cafe, đá bàn bếp, nhà tắm, mặt tiền nhà…
Tuy sở hữu vẻ đẹp không được đánh giá cao như dòng đá Marble. Nhưng đá Granite lại có được một ưu điểm khác đó là độ cứng, độ bền cao nhất trong những loại đá tự nhiên, dùng để trang trí và ốp lát.
Là một loại đá mắc-ma có dạng hạt có kết cấu hạt thô, được hình thành bởi sự kết tinh chậm của mắc-ma dưới bề mặt Trái Đất, các hạt của nó đủ lớn để có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Đá granite được cấu tạo luôn bao gồm những khoáng chất thạch anh và fenspat , có hoặc không có nhiều các loại khoáng chất khác. Thành phần khoáng chất này thường đem lại cho đá granite một màu đỏ, hồng, xám hoặc là trắng với các hạt khoáng tối màu có thể nhìn thấy khắp mặt đá.
Vì là đá có độ cứng gần 7 trên thang đo Mozh nên có thể nói đá có độ cứng, độ bền cao, và cao nhất trong những loại đá trang trí ốp lát. Đá đủ bền để có thể chịu được sự ăn mòn của các chất axit có ở trong chanh, giấm…đủ cứng để có thể chịu được sự ăn mòn của những nơi có số lượng người qua lại cao, và cấu trúc đủ khí để thấm hút nước ít hơn những vật liệu đá trang trí tự nhiên khác.
Thạch anh và fenspat thường cho ra đá granit có màu sáng, từ hồng đến trắng. Màu nền sáng đó được nhấn mạnh bởi những khoáng chất phụ kiện tối hơn. Do đó, đá granite cổ điển có vẻ ngoài “muối và hạt tiêu”
Tuy nhiên theo định nghĩa thương mại thì những loại đá có dạng hạt thô có thể nhìn thấy được bằng mắt thường đều được gọi là đá Granite, nên những viên đá Granite sẽ được mở rộng hơn rất nhiều đôi khi các loại đá bazan, gobbro,… cũng được xem là đá Granite.
Loại đá này thường được sử dụng khá phổ biến trong xây dựng, ốp tường, lát sàn nhà nội ngoại thất, những khu tiểu cảnh trang trí, cầu thang, đá ốp bếp…
Có rất ít người vẫn chưa biết rằng cái tên đá Onyx, còn được biết đến như là loại đá quý màu đen. Đôi khi nó còn được sử dụng cho một dòng đá Marble có khả năng xuyên sáng. Điều này có được là vì định nghĩa đá Marble thương mại giữa người bán và người mua. Tuy nhiên hôm nay chúng tôi chỉ đề cập tới một viên đá Marble trang trí với chức năng là xuyên sáng.
Bắt nguồn từ những hang đá vôi có thành phần là canxít và được hình thành trong các hang động ở một số khu vực trên thế giới. Chủ yếu ở Bắc Phi, Trung Đông và Nam Mỹ. Khi nước bị nhỏ giọt từ nhũ đá và măng đá, sau đó bốc hơi. Nó để lại phía sau cacbonat canxi và những khoáng chất khác tích tụ qua hàng nghìn năm. Đã tạo ra những bức tranh đẹp mắt đầy màu sắc.
Onyx là một dòng đá trầm tích, có thể bao phủ các hóa thạch ở mặt đất. Những con người thời tiền sử đã được tìm thấy những lớp đá Onyx trong các hang động. Mặc dù quá trình các giọt nước nhỏ xuống khá là mất thời gian. Nhưng các mỏ đá lớn của đá onyx được tạo thành trong một thời gian tương đối ngắn so với niên đại địa chất.
Đặc tính mờ của chúng có thể giúp ánh sáng xuyên qua, vì vậy, khi được để trước ánh đèn đá trở nên phát sáng và đem tới vẻ đẹp cuốn hút độc đáo. Ngoài ra so với các loại đá khác, nó có đặc tính mềm, giòn, dễ vỡ và rạn nứt hơn.
Đá thường bao gồm những tinh thể canxi từ nhỏ đến dạng hạt và hiếm khi dạng aragonit. Những vi tinh thể liên kết với nhau kết cấu fibrous hay lamellar. Chúng sẽ có tính chất mờ và có các loại màu sắc khác nhau tùy thuộc vào lượng oxit sắt. Màu sắc của onyx thường có màu vàng nâu do có oxit sắt, nhưng cũng có màu trắng, vàng nhạt/đậm, hổ phách, đỏ hay là màu xanh đậm. Những dải màu liên kết với nhau từ rõ ràng cho đến mơ hồ.
Đây chính là một dòng đá tự nhiên trang trí quý hiếm trên thị trường, những thành phẩm của nó thường là dạng tấm lớn, dạng kích thước quy cách hoặc là dạng hạt như mosaic. Loại đá này phù hợp nhất cho phong cách cổ điển cũng như là hiện đại, ở các công trình như nhà hàng cao cấp, resort… nó sẽ góp phần làm gia tăng giá trị và vẻ đẹp sang trọng của những nơi này.
Là một dạng đá vôi lắng đọng, được tìm thấy tại suối nước nóng hoặc hang động đá vôi. Chúng thường có dạng sợi hay đồng tâm. Được hình thành nhờ quá trình kết tủa nhanh chóng của cacbonat canxi. Sau một khoảng thời gian, chúng còn có thể hình thành các nhũ đá, măng đá hay speleothems. Chúng được ứng dụng rất nhiều trong các công trình xây dựng.
Travertine trầm tích trên mặt đất, được hình thành nhờ sự kết tủa của các khoáng vật cacbonat từ dung dịch trong nước ngầm và mặt nước. Hoặc, những dòng suối nước nóng được làm nóng bằng địa nhiệt tương tự (nhưng mềm hơn và cực kỳ xốp) được hình thành từ nước có nhiệt độ môi trường xung quanh được gọi là tufa.
Bề mặt của đá travertine là có rất nhiều lỗ do quá trình hình thành những bong bóng khí carbon dioxide bị giữ lại trong khối đá. Kết cấu nhẹ, xốp, độ cứng thấp hơn dòng đá Marble. Đặc biệt, dòng đá này chịu được sự dao động lớn của nhiệt độ và giữ được màu sắc rất là tốt.
Khả năng chống thấm của dòng đá này là không tốt, nên nếu như không có quá trình chống thấm thì nước, thực phẩm thấm vào sẽ làm hỏng kết cấu của đá. Chất lượng đá travertine được đánh giá chủ yếu dựa vào mật độ lỗ ở trên bề mặt, “càng ít lỗ thì chất lượng càng cao”. Dựa vào điều này mà mức giá của chúng cũng rất khác nhau.
Đá travertine được biết đến và được đánh giá cao về vẻ đẹp mộc mạc, cổ điển, sự khác biệt so với loại đá khác. Màu sắc của chúng cũng khá đa dạng như nâu, trắng, xám, và nâu sáng hoặc màu đỏ giống như gỉ sét. Màu sắc được quyết định bởi các hàm lượng sắt.
Đá vôi thường được sử dụng làm cốt liệu cho bê tông, rải mặt đường, chế tạo tấm ốp, tấm lát, những cấu kiện kiện kiến trúc, xây dựng, tạo hình điêu khắc tượng, hòn non bộ trang trí…
Hy vọng với những điều được chia sẻ ở trên của HOMEMAS sẽ giúp các bạn hiểu biết hơn về các loại đá tự nhiên trang trí và lựa chọn được cho dự án của mình những loại đá thích hợp nhất.
Thực chất có rất nhiều dòng đá trang trí nếu theo những quan niệm của các nhà địa chất, tuy nhiên do yếu tố thương mại giữa người bán và người mua cho nên nhiều loại đá đã bị gộp vào nhau. Nên nếu ta chỉ xét những loại trang trí phổ biến trên thị trường hiện nay thì các định nghĩa thương mại về các loại đá sẽ được chúng tôi sử dụng để phù hợp và thuận tiện cho mọi người. Điển hình như những loại đá sau: Đá cẩm thạch (đá marble), đá hoa cương ( đá Granite), đá xuyên sáng onyx và đá trầm tích (đá vôi-travertine)
1. Đá cẩm thạch (đá marble)
Dòng đá này được cho là có vẻ đẹp đứng đầu trong những loại đá tự nhiên trang trí, và lẽ dĩ nhiên đi kèm với điều đó chính là chi phí cũng không hề nhỏ.Cấu tạo
Đá được hình thành do các hoạt động địa chất của những nơi bị nứt gãy bề mặt Trái Đất mà có sự phân bố của các loại đá vôi, đá trầm tích, đá giàu cacbon,… Nhiệt độ, áp suất và những lực vận động dưới lòng đất sẽ được bổ sung. Kết hợp thêm những khoáng chất do thổ nhưỡng và môi trường xung quanh. Chúng đã kết tinh lại và tạo ra đá biến chất quá trình này có thể diễn ra tới hàng ngàn năm. Một trong số các tảng đá biến chất đó, ngày nay chúng ta thường gọi với tên khoa học đó là đá Marble.
Tính chất
Do được hình thành từ đá vôi, đá trầm tích, đá giàu cacbon,…nên về mặt tính chất sau khi biến chất chúng sẽ có một độ cứng, bền cao hơn các loại đá này. Tuy nhiên, mặc dù tốt hơn nhưng nó vẫn sẽ tồn tại cấu trúc xốp, nên nó vẫn hút ẩm. Ngoài ra với các độ cứng đo được trên thang đo Mozh là 3 – 4, đá Marble trang trí chỉ được coi là loại đá mềm.
Đặc điểm
Đá có nhiều màu sắc khác nhau bao gồm như: Màu trắng, trắng xám, màu đen, màu xám, xám xanh, màuđỏ, màu xanh lục, màu vàng,… Bề mặt ngoài đá có nhiều loại hoa văn trông giống như những tĩnh mạch với nhiều sắc thái khác nhau, tạo nên các vẻ đẹp độc đáo tiêu tốn khá nhiều giấy mực của nhiều nhà bình luận. Màu sắc của đá Marble được những nhà địa chất giải thích là, do các khoáng chất có lẫn trong đá gốc ban đầu hoặc là của môi trường xung quang bị lẫn vào khi những hoạt động địa chất xảy ra.
Ứng dụng
Đá thường được sử dụng vào cả thiết kế nội và ngoại thất tất cả những hạng mục công trình như là ốp tường, cầu thang, cột, bar, bàn cafe, đá bàn bếp, nhà tắm, mặt tiền nhà…
2. Đá hoa cương (đá granite)
Tuy sở hữu vẻ đẹp không được đánh giá cao như dòng đá Marble. Nhưng đá Granite lại có được một ưu điểm khác đó là độ cứng, độ bền cao nhất trong những loại đá tự nhiên, dùng để trang trí và ốp lát.
Cấu tạo
Là một loại đá mắc-ma có dạng hạt có kết cấu hạt thô, được hình thành bởi sự kết tinh chậm của mắc-ma dưới bề mặt Trái Đất, các hạt của nó đủ lớn để có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Đá granite được cấu tạo luôn bao gồm những khoáng chất thạch anh và fenspat , có hoặc không có nhiều các loại khoáng chất khác. Thành phần khoáng chất này thường đem lại cho đá granite một màu đỏ, hồng, xám hoặc là trắng với các hạt khoáng tối màu có thể nhìn thấy khắp mặt đá.
Tính chất
Vì là đá có độ cứng gần 7 trên thang đo Mozh nên có thể nói đá có độ cứng, độ bền cao, và cao nhất trong những loại đá trang trí ốp lát. Đá đủ bền để có thể chịu được sự ăn mòn của các chất axit có ở trong chanh, giấm…đủ cứng để có thể chịu được sự ăn mòn của những nơi có số lượng người qua lại cao, và cấu trúc đủ khí để thấm hút nước ít hơn những vật liệu đá trang trí tự nhiên khác.
Đặc điểm
Thạch anh và fenspat thường cho ra đá granit có màu sáng, từ hồng đến trắng. Màu nền sáng đó được nhấn mạnh bởi những khoáng chất phụ kiện tối hơn. Do đó, đá granite cổ điển có vẻ ngoài “muối và hạt tiêu”
Tuy nhiên theo định nghĩa thương mại thì những loại đá có dạng hạt thô có thể nhìn thấy được bằng mắt thường đều được gọi là đá Granite, nên những viên đá Granite sẽ được mở rộng hơn rất nhiều đôi khi các loại đá bazan, gobbro,… cũng được xem là đá Granite.
Ứng dụng
Loại đá này thường được sử dụng khá phổ biến trong xây dựng, ốp tường, lát sàn nhà nội ngoại thất, những khu tiểu cảnh trang trí, cầu thang, đá ốp bếp…
3. Đá xuyên sáng onyx
Có rất ít người vẫn chưa biết rằng cái tên đá Onyx, còn được biết đến như là loại đá quý màu đen. Đôi khi nó còn được sử dụng cho một dòng đá Marble có khả năng xuyên sáng. Điều này có được là vì định nghĩa đá Marble thương mại giữa người bán và người mua. Tuy nhiên hôm nay chúng tôi chỉ đề cập tới một viên đá Marble trang trí với chức năng là xuyên sáng.
Cấu tạo
Bắt nguồn từ những hang đá vôi có thành phần là canxít và được hình thành trong các hang động ở một số khu vực trên thế giới. Chủ yếu ở Bắc Phi, Trung Đông và Nam Mỹ. Khi nước bị nhỏ giọt từ nhũ đá và măng đá, sau đó bốc hơi. Nó để lại phía sau cacbonat canxi và những khoáng chất khác tích tụ qua hàng nghìn năm. Đã tạo ra những bức tranh đẹp mắt đầy màu sắc.
Onyx là một dòng đá trầm tích, có thể bao phủ các hóa thạch ở mặt đất. Những con người thời tiền sử đã được tìm thấy những lớp đá Onyx trong các hang động. Mặc dù quá trình các giọt nước nhỏ xuống khá là mất thời gian. Nhưng các mỏ đá lớn của đá onyx được tạo thành trong một thời gian tương đối ngắn so với niên đại địa chất.
Tính chất
Đặc tính mờ của chúng có thể giúp ánh sáng xuyên qua, vì vậy, khi được để trước ánh đèn đá trở nên phát sáng và đem tới vẻ đẹp cuốn hút độc đáo. Ngoài ra so với các loại đá khác, nó có đặc tính mềm, giòn, dễ vỡ và rạn nứt hơn.
Đặc điểm
Đá thường bao gồm những tinh thể canxi từ nhỏ đến dạng hạt và hiếm khi dạng aragonit. Những vi tinh thể liên kết với nhau kết cấu fibrous hay lamellar. Chúng sẽ có tính chất mờ và có các loại màu sắc khác nhau tùy thuộc vào lượng oxit sắt. Màu sắc của onyx thường có màu vàng nâu do có oxit sắt, nhưng cũng có màu trắng, vàng nhạt/đậm, hổ phách, đỏ hay là màu xanh đậm. Những dải màu liên kết với nhau từ rõ ràng cho đến mơ hồ.
Ứng dụng
Đây chính là một dòng đá tự nhiên trang trí quý hiếm trên thị trường, những thành phẩm của nó thường là dạng tấm lớn, dạng kích thước quy cách hoặc là dạng hạt như mosaic. Loại đá này phù hợp nhất cho phong cách cổ điển cũng như là hiện đại, ở các công trình như nhà hàng cao cấp, resort… nó sẽ góp phần làm gia tăng giá trị và vẻ đẹp sang trọng của những nơi này.
4. Đá trầm tích (travertine)
Cấu tạo
Là một dạng đá vôi lắng đọng, được tìm thấy tại suối nước nóng hoặc hang động đá vôi. Chúng thường có dạng sợi hay đồng tâm. Được hình thành nhờ quá trình kết tủa nhanh chóng của cacbonat canxi. Sau một khoảng thời gian, chúng còn có thể hình thành các nhũ đá, măng đá hay speleothems. Chúng được ứng dụng rất nhiều trong các công trình xây dựng.
Travertine trầm tích trên mặt đất, được hình thành nhờ sự kết tủa của các khoáng vật cacbonat từ dung dịch trong nước ngầm và mặt nước. Hoặc, những dòng suối nước nóng được làm nóng bằng địa nhiệt tương tự (nhưng mềm hơn và cực kỳ xốp) được hình thành từ nước có nhiệt độ môi trường xung quanh được gọi là tufa.
Tính chất
Bề mặt của đá travertine là có rất nhiều lỗ do quá trình hình thành những bong bóng khí carbon dioxide bị giữ lại trong khối đá. Kết cấu nhẹ, xốp, độ cứng thấp hơn dòng đá Marble. Đặc biệt, dòng đá này chịu được sự dao động lớn của nhiệt độ và giữ được màu sắc rất là tốt.
Khả năng chống thấm của dòng đá này là không tốt, nên nếu như không có quá trình chống thấm thì nước, thực phẩm thấm vào sẽ làm hỏng kết cấu của đá. Chất lượng đá travertine được đánh giá chủ yếu dựa vào mật độ lỗ ở trên bề mặt, “càng ít lỗ thì chất lượng càng cao”. Dựa vào điều này mà mức giá của chúng cũng rất khác nhau.
Đặc điểm
Đá travertine được biết đến và được đánh giá cao về vẻ đẹp mộc mạc, cổ điển, sự khác biệt so với loại đá khác. Màu sắc của chúng cũng khá đa dạng như nâu, trắng, xám, và nâu sáng hoặc màu đỏ giống như gỉ sét. Màu sắc được quyết định bởi các hàm lượng sắt.
Ứng dụng
Đá vôi thường được sử dụng làm cốt liệu cho bê tông, rải mặt đường, chế tạo tấm ốp, tấm lát, những cấu kiện kiện kiến trúc, xây dựng, tạo hình điêu khắc tượng, hòn non bộ trang trí…
Hy vọng với những điều được chia sẻ ở trên của HOMEMAS sẽ giúp các bạn hiểu biết hơn về các loại đá tự nhiên trang trí và lựa chọn được cho dự án của mình những loại đá thích hợp nhất.
Nhận xét
Đăng nhận xét